Được lưu giữ ở Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, tượng Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn chùa Hội Hạ là một trong những tác phẩm điêu khắc cổ đồ sộ và tinh xảo bậc nhất Việt Nam. Vốn là tượng thờ của chùa Hội Hạ (TP Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc), tượng có niên đại từ thế kỷ 16, được tạc bằng gỗ với trọng lượng khoảng khoảng 3 tấn, kết cấu chia làm 3 phần: phần tượng, phần đài sen và phần bệ lục giác. Phần tượng tạc Đức Quán Thế Âm trong thế ngồi thiền với nét đặc sắc là có đến 42 đôi tay. Một đôi tay chính chắp trước ngực thế Liên hoa hợp chưởng ấn. Một đôi đặt trong lòng kết ấn Thiền định. Các đôi tay khác tỏa đều sang hai bên với các thế ấn khác nhau và cầm các bảo pháp của Phật giáo. Đây là pho tượng cầm nhiều bảo pháp nhất so với hầu hết các pho tượng Quan Âm cùng thể loại. Khuôn mặt từ bi, mang đậm nét chân dung người Việt. Mũ tượng được chạm khắc tinh xảo với nhiều lớp. Đài sen của tượng có ba lớp cánh sen múp tròn. Họa tiết trang trí cánh sen rất đặc trưng cho nghệ thuật thế kỷ 16, đó là những đường chỉ xoắn dạng tay mướp ở đầu cánh sen. Hai bên đài sen có cặp tượng Kim Đồng, Ngọc Nữ tọa trên hai đài sen nhỏ mọc lên từ bệ lục giác, được tạo hình rất tinh tế, là chi tiết rất riêng biệt của tượng so với các tác phẩm cùng thể loại. Bệ lục giác của tượng được chạm khắc với những biểu tượng về vũ trụ quan: Mặt của bệ tượng trưng cho mặt biển, chính giữa bệ đầu quỉ nhô lên dang hai tay đỡ bệ sen. Hình tượng này gắn liền với truyền thuyết Quan Âm Nam Hải giáo hóa quỷ Ô Ba Na Đà sống dưới biển. Thân bệ được tạo hình thắt ở phần giữa với 6 con chim thần Garuda ngự ở 6 góc bệ. Hình tượng chim Garuda này mang dấu ấn của nghệ thuật Phật giáo giai đoạn sớm có tính kế thừa lối chạm khắc bệ tượng hoa sen thời Trần. Ngoài ra trên các cạnh lục giác còn chạm rất nhiều các biểu tượng đặc sắc khác như: hình lá đề chạm rồng, rồng mây, rồng chạm dạng kỷ hà, cá hóa rồng, hoa sen, hoa cúc… Một mảng chạm khắc trên bệ tượng. Các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa, mỹ thuật đánh giá tượng Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn chùa Hội Hạ là hiện vật nguyên gốc, độc bản mang những giá trị nghệ thuật đặc sắc, tiêu biểu cho nghệ thuật Phật giáo Việt Nam. Tượng đã được công nhận là Bảo vật quốc gia của Việt Nam. (Bài có sử dụng tư liệu của Cục Di sản Văn hóa).
Vốn là tượng thờ của chùa Hội Hạ (TP Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc), tượng có niên đại từ thế kỷ 16, được tạc bằng gỗ với trọng lượng khoảng khoảng 3 tấn, kết cấu chia làm 3 phần: phần tượng, phần đài sen và phần bệ lục giác.
Một đôi tay chính chắp trước ngực thế Liên hoa hợp chưởng ấn.
Các đôi tay khác tỏa đều sang hai bên với các thế ấn khác nhau và cầm các bảo pháp của Phật giáo.
Đây là pho tượng cầm nhiều bảo pháp nhất so với hầu hết các pho tượng Quan Âm cùng thể loại.
Khuôn mặt từ bi, mang đậm nét chân dung người Việt.
Mũ tượng được chạm khắc tinh xảo với nhiều lớp.
Đài sen của tượng có ba lớp cánh sen múp tròn.
Họa tiết trang trí cánh sen rất đặc trưng cho nghệ thuật thế kỷ 16, đó là những đường chỉ xoắn dạng tay mướp ở đầu cánh sen.
Hai bên đài sen có cặp tượng Kim Đồng, Ngọc Nữ tọa trên hai đài sen nhỏ mọc lên từ bệ lục giác, được tạo hình rất tinh tế, là chi tiết rất riêng biệt của tượng so với các tác phẩm cùng thể loại.
Bệ lục giác của tượng được chạm khắc với những biểu tượng về vũ trụ quan: Mặt của bệ tượng trưng cho mặt biển, chính giữa bệ đầu quỉ nhô lên dang hai tay đỡ bệ sen.
Hình tượng này gắn liền với truyền thuyết Quan Âm Nam Hải giáo hóa quỷ Ô Ba Na Đà sống dưới biển.
Thân bệ được tạo hình thắt ở phần giữa với 6 con chim thần Garuda ngự ở 6 góc bệ.
Hình tượng chim Garuda này mang dấu ấn của nghệ thuật Phật giáo giai đoạn sớm có tính kế thừa lối chạm khắc bệ tượng hoa sen thời Trần.
Ngoài ra trên các cạnh lục giác còn chạm rất nhiều các biểu tượng đặc sắc khác như: hình lá đề chạm rồng, rồng mây, rồng chạm dạng kỷ hà, cá hóa rồng, hoa sen, hoa cúc…
Một mảng chạm khắc trên bệ tượng.
Các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa, mỹ thuật đánh giá tượng Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn chùa Hội Hạ là hiện vật nguyên gốc, độc bản mang những giá trị nghệ thuật đặc sắc, tiêu biểu cho nghệ thuật Phật giáo Việt Nam.
Tượng đã được công nhận là Bảo vật quốc gia của Việt Nam. (Bài có sử dụng tư liệu của Cục Di sản Văn hóa).